Quẻ 33 - Thiên Sơn Độn

Quẻ Thiên Sơn Độn còn gọi là quẻ Độn (遯), là quẻ thứ 33 trong Kinh Dịch. Quẻ có Nội quái là ☶ Cấn (艮), tức Núi (山), Ngoại quái là ☰ Càn (艮), tức Trời (天). Quẻ Thiên Sơn Độn là một trong 8 quẻ thuộc Cung Càn, có ngũ hành Kim. Tượng quẻ "Nùng Vân Tế Nhật" là quẻ Hung.

Lời Kinh:

Quẻ Quẻ 33 - Thiên Sơn Độn

遯: 亨, 小利貞.

Độn: Hanh, tiểu lợi trinh.

Có nghĩa là: Trốn lánh đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi.

Lời Triệu:

"Nùng Vân Tế Nhật - Mưu sự bất thành"

Quẻ Thiên Sơn Độn đứng số 33 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Thiên Sơn Độn có điềm "Mưu sự bất thành", đây là quẻ hung trong kinh dịch. Mất của khó thấy, giao dịch khó khăn, góp vốn bất lợi, mọi sự bất thành.
Thiên Sơn Độn có Nội quái là: ☶ Cấn hay Núi. Ngoại quái là: ☰ Càn hay Trời. Ngũ hành quẻ: Kim.
"Độn" tức là "tránh", vì vậy có hình tượng "mây dầy che trời".
"Nồng vân": mây dầy, "Tế nhật": che trời, che mất ánh sáng mặt trời. "Nồng vân tế nhật" là chuyện Mặt trời đang chiếu, bỗng có một đám mây dầy bay đến che kín. Kẻ gieo phải quẻ này điềm "Mưu sự bất thành".
Hình tượng của quẻ Thiên Sơn Độn
Mặt trời đang chiếu xuống đất, bỗng mây đen kéo đến ùn ùn, che lấp ánh sáng, chủ tất sẽ hoảng hốt, mọi việc không ổn.
Ngày xưa, Tuyết Lễ trên đường đầu quân đã gieo phải quẻ này. Quả nhiên sau này ông ta bị Trương Sĩ Quý che giấu công lao, không được hiển đạt. Đúng là ứng với quẻ "Mây dầy che lấp mặt trời", thật là "mưu sự bất thành".

Tượng Quẻ:

Ngoại quái càn, nội quái cấn, là sấm sét bị nghẹt lại với núi và không thể nào lan rộng ra được. hào nhị, hào ngũ đắc trung, hào tam, hào tứ đều thất vị chỉ nên làm việc nhỏ, không làm việc lớn.

Thoái dã. Ẩn trá. Lui, ẩn khuất, tránh đời, lừa dối, trá hình, có ý trốn tránh, trốn cái mặt thấy cái lưng. Báo ẩn nam sơn chi tượng: tượng con báo ẩn ở núi nam.

Hể ở lâu thì phải rút lui, lánh đi, hết ngày thì tới đêm, hết đông tới xuân, ngồi lâu phải đứng dậy, già rồi nên về hưu .., cho nên sau quẻ Hằng (lâu) tới quẻ động (là trốn lánh đi).

Trên là trời, dưới là núi: ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng càng lên càng thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt tít vời, như trời trốn lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn.

Quẻ này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái tượng âm (tiểu nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm. Độn thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12.

Ở thời Động, âm dương tiến mạnh, dương nên rút lui đi là hợp thời, được hanh thông (có thể hiểu là : đạo quân tử vẫn hanh thông). Tuy nhiên âm mới có 2, dương còn tới 4, chưa phải là thời Bĩ (cả 3 âm đều tiến lên), nên chưa đến nỗi nào, trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì còn có lợi, còn làm được.

Sở dĩ chưa đến nỗi nào, còn hanh thông vì trong quẻ có hào 5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó, chưa nên trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ Độn này rất quan trọng.

Đại tượng truyện khuyên trong thời này quân tử nên xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá.

Hào của quẻ:

Hào Diễn giải
Hào 6

6. 上九: 肥遯, 无不利.

Thượng cửu: Phi độn, vô bất lợi.

Dịch: Hào trên cùng, dương: trốn mà ung dung, đàng hoàng, không có gì là không lợi.

Giảng: Vào lúc cuối thời Độn, càng trốn được xa càng được tự do. Hào này dương cương quân tử, không bịn rịn với hào nào cả (vì hào 3 cũng là dương), có thể ung dung, đàng hoàng trốn được, không nghi ngại gì cả.

Hào 5

5. 九五: 嘉遯, 貞吉.

Cửu ngũ: gia độn, trinh cát.

Dịch: Hào 5, dương, trốn mà theo điều chính cho nên tốt.

Giảng: Hà 5, dương có đức trung chính, ứng với hào 2 cũng trung chính, ở thời Độn, cả 2 hào trung chính dắt nhau trốn bọn tiểu nhân, giữ được điều chính, cho nên tốt.

Hào 4

4. 九四: 好遯, 君子吉, 小人否.

Cửu tứ: Hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân phủ.

Dịch: Hào 4 dương: Có hệ lụy với người, nhưng trốn được, quân tử thì tốt, tiểu nhân thì không.

Giảng: Hào này cũng tối nghĩa; chữ 好 có người đọc là hảo , chữ 否 có người đọc là bĩ, vì vậy có nhiều cách hiểu, với hào 1 âm nhu, có tình thân thiết (hệ lụy) với nhau; nhưng 4 là quân tử, 1 là tiểu nhân , 4 cắt được tư tình mà trốn đi, theo lệ phải (chính nghĩa); chỉ hạng quân tử mới làm vậy được, tiểu nhân thì không .

Hào 3

3. 九三: 係遯, 有疾厲, 畜臣妾, 吉.

Cửu tam: Hệ độn, hữu tật lệ, súc thần thiếp, cát.

Dịch: Hào 3, dương, lúc phải trốn mà bịn rịn tư tình thì nguy; nhưng nuôi kẻ tôi tớ trai gái thì tốt.

Giảng: Hào dương này ở gần hào 2 âm, có vẻ bịn rịn tư tình với hào đó, không thể trốn mau được, như bị bệnh mà nguy; có tư tình đó thì không làm được việc lớn, chỉ nuôi bọn tôi tớ trai gái mình tốt với họ thì họ vui lòng mà dễ sai khiến, được việc cho mình.

Bốn chữ “súc thần thiếp, cát” tôi hiểu theo Phan Bội Châu; Chu Hi giảng rất mù mờ, lúng túng; J. Legge giảng là: nếu 3 đổi hào 2, như nuôi tôi tớ trai gái thì tốt. R. Wilhem giảng là 3 vẫn giữ được sự tự quyết, đừng để cho hào 2 sai khiến mình thì tốt.

Hào 2

2. 六二: 執之用黃牛之革, 莫之勝說.

Lục nhị: chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thăng thoát.

Dịch: Hào 2, âm: Hai bên (hào 5 và hào 2) khăng khít (bền chặt) với nhau như buộc vào nhau bằng da bò vàng, không thể nào cởi được.

Giảng: hào 2 âm, đắc trung đắc chính, ứng với hào 5 dương cũng đắc trung đắc chính, cho nên tương đắc, khắng khít với nhau, không thể rời nhau được, 2 không thể bỏ 5 mà trốn được.

Màu vàng (da bò vàng) là màu trung, ám chỉ hai hào đó đều đắc trung.

Hào 1

1. 初六: 遯尾, 厲, 勿用有攸往.

Sơ lục: độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng.

Dịch: Hà 1, âm: Trốn sau cùng, như cái đuôi, nguy đấy, đừng làm gì cả.

Giảng: Hào ở dưới cùng, nên ví với cái đuôi ở lại sau cùng. Nó là âm, nhu nhược, hôn ám, không trốn theo kịp người, còn rù rờ ở sau, nên bảo là nguy.

Xem thêm

Xin xăm online

Xin Xăm

Tra cứu SIM Phong Thủy

Nhập số điện thoại